Hà Tây, ngày 06/3/1999
VII. TÌNH QUÊ MỘT TRUYỆN THƠ ĐẶC SẮC - Bùi Bình Thi
Trong nhiều năm nay trên văn đàn vùng thơ thường chỉ có những tập thơ bài ngắn tựa như những bản ca khúc thôi thì đủ mọi kiểu thơ ở trong vô số những tập thơ gồm nhiều bài thơ ngắn mà tác giả tập hợp lại ấy. Rồi cũng có một số tập thơ trong đó là thể loại trường ca. Hay dở của thể loại này hoặc thể loại kia thì có thời gian để mà bàn, mặc dầu đã bước sang thế kỷ XXI. Tuy vậy, có một thể loại thơ thấy hiếm khi xuất hiện, đó là truyện thơ. Cũng như kịch thơ, tôi không rõ những ai mê kịch thơ. Nhưng thể loại này trước 1945 đã thấy có tuy không nhiều, cả trong kháng chiến chống Pháp cũng xuất hiện những đêm kịch thơ trong rừng Việt Bắc.
Trở lại truyện thơ bây giờ rất hi hữu, ấy vậy mà lại xuất hiện có tên là “Tình Quê”, truyện thơ của tác giả Nguyễn Hữu Khai do Nhà xuất bản Văn hóa – Thông tin ấn hành.
Tác giả tặng tôi tập thơ này vào đầu năm nay, tôi cầm về và càng đọc thì càng trân trọng với những gì mà tác giả Tình Quê gửi gắm ở đây. Có lẽ, tôi có thuận lợi hơn nhiều bạn đọc là tác giả cùng quê với tôi; điều quan trọng hơn, nhà tác giả tôi đã về thăm, đứng bên này trên tầng gác thượng nhà Nguyễn Hữu Khai, nhìn qua sông Đáy sang đất Ứng Hòa là huyện nhà tôi.
Quê của Khai xanh biếc cây và yên ả, êm đềm quá, nhà gạch san sát và đồng đất bãi chạy phẳng lỳ vào đến tận chân núi. Cây trái sum suê trong rất nhiều vườn nhà. Đứng trên cao nhìn xuống càng đẹp, mái ngói màu xanh nâu lấp ló trong tán cây màu xanh rì. Những nhánh đường lát gạch, hon đa chạy làm cho cảnh sắc thêm sinh động và đáng yêu.
Sở dĩ tôi nhắc đến quang cảnh làng quê Khai là vì, đọc truyện thơ của anh, tôi thấy mồn một. Nhất là cái âm hưởng của thơ lục bát làm cho không chỉ “Tình Quê” mà cả cảnh quê, người người trẻ già gái trai của quê mình đã hiện lên rất sống động trong truyện thơ này của anh.
Xin hãy đọc một đoạn về cảnh trí đẹp và gợi cảm xúc nồng nàn ở đây:
“... Đầm sen ngào ngạt tỏa hương
Khăn, đàn tha thướt dọc mương tới hồ
Ngút ngàn mườn mượt nương ngô
Nắng chiều gieo bạc xuống hồ lăn tăn
Khoan khoan trên chiếc thuyền nan
Hồng chèo Phổ hát, Phổ đàn Hồng nghe
Khúc đàn gợi nét xuân hè
Âm thanh dìu dịu, gió nhè nhẹ qua
Sóng đàn, sóng nước giao thoa
Tiết tấu nẩy lộc, nở hoa trên cành...”
Điều làm tôi ngạc nhiên khi đọc truyện thơ của Nguyễn Hữu Khai ấy là cảnh quê hương của anh vừa tả trên đây lại là cảnh hoàn toàn có thật, thật một trăm phần trăm ở quê anh. Vì vậy cái thật như đếm của cảnh sắc quê hương, của trai gái quê hương anh, được anh tràn vào thơ với một âm vận lục bát sành điệu, do đó làm cho thơ anh như một bức ảnh chụp hết sức sinh động và chứa chan cảm xúc.
Truyện trong thơ này lấy khoảng thời gian của trước khi giặc Mỹ leo thang gây chiến tranh ở miền Bắc nước ta. Hồng - một cô gái nết na, Phổ – một chàng trai tuấn tú ở cùng quê, cùng trường học thuở ấu thơ. Nguyện vọng tha thiết của Phổ là cầm súng đánh Mỹ. Cái tài của tác giả là khi sáng tác ra truyện thơ này là thời gian cách trong truyện thơ khá xa, hơn 20 năm chứ không ít. Ấy vậy mà trong truyện thơ đã tái hiện được nguyên si cảnh trạng. Tình huống không ít và nhất là nhịp điệu sống, nhịp điệu sinh hoạt, làm lụng, cấy hái của thời bấy giờ.
“... Chiến trường thi với ruộng đồng
Bà con náo nức cấy trồng vụ xuân
Cờ bay phấp phới xa gần
Tiếng trống thúc giục bước chân mọi người
Khu này rộn tiếng nói cười
Ấy hội thi cấy người người ra tay
Xem ai thắng cuộc hôm nay
Cấy nhanh, cấy khéo, cấy ngay thẳng hàng...”
Hay là một pha ghi nhanh bằng thơ khá sống động và tứ thơ lung linh, làm cho người đọc nhớ lại những kỷ niệm êm đềm của ngày ấy:
“... Phi lao song lối đường mòn
Hắt hiu ánh nắng đã tròn bóng cây
Nhịp cầu nho nhỏ mới xây
Nước mương cuộn chảy tới đây giật lùi
Vo vo nước xoáy sập sùi
Xốn xang Hồng trộn lo, vui trong lòng
Hội thi tay cấy vừa xong
Chị là kiện tướng một trong ba người
Sen cong cuống búp ngậm cười
Phượng non khép kín sắc tươi la đà...”
Điều đáng nói nhất ở đoạn trên đây còn là cách khai thác tâm trạng đau đáu của Hồng nhớ thương và mong mỏi tin người yêu trong lòng chị. Ngoài ra còn biểu hiện một điềm gở và linh cảm không lành đến với chị. (Sau đó là chị nhận giấy báo tử của chồng chưa cưới).
Lấy cảnh để nói tình, lấy cảnh để tả tâm trạng, kể cũng có nhiều nhà thơ đã làm. Nhưng điều đáng nói ở đoạn truyện thơ trên là cảnh sắc rất rành rẽ hết sức thật, thật tới mức đọc bằng chữ, mà có cảm giác như xem ảnh, một bức tranh đọc mà thi sĩ Nguyễn Hữu Khai vừa chụp ấy thì quả thật là hiếm thấy, và cũng vì thế mà nó thực sự đặc sắc.
Toàn bộ truyện thơ dài 1472 câu thơ phong gói một chuyện tình của đôi trai gái, cô gái tên là Hồng. Anh con trai tên là Phổ, rồi một vài người nữa là mẹ Phổ, Trình bạn thân của hai người, một vài bà con làng xóm. Nhân vật đâu có nhiều vậy mà cái tình, cái tâm trạng của các nhân vật ấy nhất là nhân vật chính Hồng - Phổ – Trình ... lại đa dạng và sinh động đến thế.
Một câu chuyện tình cảm động Phổ và Hồng yêu nhau, trầu cau chạm ngõ, thề non hẹn biển khi Phổ ra trận. Hồng ở lại quê nhà xây dựng HTX. Thế rồi, năm chờ tháng đợi mà vẫn bặt tin Phổ. Rồi tin báo tử của Phổ về làng, nhận được tin người yêu hy sinh ngoài mặt trận Hồng đau đớn vô hạn. Người ta thường nói đến những khúc ngoặt này của tình cảm, thường là người ta chỉ hạ một câu:...”Bút nào tả xiết”. Nhưng với Nguyễn Hữu Khai anh đã tả xiết được, lại tả xiết bằng thơ nữa kia.
Xin độc giả đọc đoạn thơ sau, lời trong tâm tưởng của Hồng:
“... Thoắt nghe Hồng cắn chặt môi
Khụy chân, chững bước bồi hồi ruột gan
Sập cầu cành gẫy bình tan
Đất trời nghiêng ngả lệ dàn dụa rơi
Anh ơi muôn dặm xa vời
Em chờ anh nỡ dứt lời hỡi anh
Duyên ta chưa tới ngày lành
Mà sao hoa lá đã thành gió sương
Hỡi ơi! Sóng bể dặm trường
Xương tan thịt nát vãi vương nơi nào
Hỡi trời lồng lộng xanh cao!
Duyên tình con trẻ nỡ nào cắt đi
Không thương đem đến làm chi
Mà thương còn nỡ chia ly sao đành?
Hỡi trời! Hỡi biển! Hỡi anh!
Thôi thôi duyên đã tan tành từ đây...!”
Xin hãy chú ý bốn câu cuối:
“...Không thương đem đến làm chi
Mà thương còn nỡ chia ly sao đành...?”
Phải nói rằng bằng thơ mà tả được đến vậy là rất hay. Nó hay ra sao? Nó hay ở chỗ đầy chất nữ tính đến cái nỗi đọc đến đây tôi phải reo lên: “Nguyễn Hữu Khai hiểu tâm trạng con gái quá”. Hiểu thấu đến thế nên là thơ mộc mạc chất phác mà lại gói trọn trong một trạng thái khôn xiết đau đớn của một cô gái có người yêu, chồng chưa cưới vừa nghe tin hy sinh ngoài mặt trận. Thế rồi từ tâm trạng của người con gái, đến tâm trạng của người mẹ cô gái, trong cùng cảnh mất mát đã được tác giả chuyển đoạn rất khéo. Một núi đau thương của hai con người một già một trẻ cộng lại dài thông quá ba chục câu thơ, ấy vậy mà thật đầy đủ và bộc lộ được tính cách khá rõ của hai mẹ con. Truyện thơ khi miêu tả nhân vật rất có điều kiện để tả tâm tình, vì văn vần nhất là văn vần lục bát thì càng thuận lợi cho việc nói đến tâm trạng. Chỉ có điều nói thế nào, và cách nào. Ở đây, Nguyễn Hữu Khai đã chọn cách tả của tiểu thuyết, nghĩa là tả thẳng vào mỗi nhân vật, rồi từ đó nghĩ đến người thứ ba ra sao? Ở đây tác giả quả thật đã thành công lắm. Xin hãy nghe tâm trạng đau đớn, thương cô gái của một bà mẹ:
“... Nhìn trẻ nhức nhối lòng già
Dìu con từng bước vào nhà giải khuyên
Con ơi! Bớt nỗi buồn phiền
Cảnh chung cả nước phải riêng đâu mình
Đã là trọn nghĩa trọn tình
Người tuy khuất bóng nghĩa mình còn đây
Giữ hoa khỏi phụ hồn cây
Trên nhà hai cụ cũng đầy đau thương
Nén lòng giữ nét bình thường
Con lên trên ấy liệu đường nói năng
Nới chùng trong lúc dây căng
Lựa lời an ủi san bằng sầu đau
Chung tình trọn hiếu trước sau
Quên mình đi, để vì nhau mới là...”
Trong 14 câu trên đây, số câu hay chiếm già nửa trong đó có những câu thơ rất hay, nghĩa là tiêu chuẩn hay là phải lấy chuẩn mực của nhà thơ chuyên nghiệp. Vậy mà Nguyễn Hữu Khai, tôi dám chắc đây là tập truyện thơ đầu tay của anh.
Còn những câu rất hay ư? Như câu sau đây:
“... Giữ hoa khỏi phụ hồn cây......”
“...... Quên mình đi, để vì nhau mới là...”
Những câu thơ hay thì tác giả nào cũng có. Còn câu thơ hay mộc mạc chân quê thì như thơ của Nguyễn Hữu Khai này cũng đáng là thơ lắm. Và không phải là nhà thơ nào cũng có đâu.
Và cô gái trong cảnh đau thương đó: Hồng ra sao đây? Vì bên cô còn mẹ của Phổ, cô đau một thì mẹ đau mười. Cô phải khuyên giải mẹ của Phổ như thế nào bây giờ?
Nguyễn Hữu Khai tả thật hay: Hồng đã đến đứng dưới hiên nhà Phổ và chìm đắm trong cảnh đau thương của gia đình bố mẹ, anh em của người yêu. Vậy mà tác giả chỉ cần một câu thơ thôi mà nói được hết cả:
“... Hồng vẫn đứng lặng một bên
Mái nhà chao đảo đè lên đỉnh đầu...”
Lấy toàn bộ cái mái nhà là nơi đang chất chứa bao thương đau, cao như núi và mái nhà đó đè xuống đầu Hồng thật không gì đầy đủ hơn khi nói về những nỗi đau thương vô hạn nặng nề đó.
Thế thì sau câu trên sẽ còn những gì nữa? Còn chứ, và cũng hay không kém. Ta hãy đọc tiếp để xem tâm trạng Hồng có những gì nữa:
“... Mẹ Phổ lại ngất hồi lâu
Hồng nâng mẹ dậy lấy dầu cao xoa
Nén tâm tràn mắt lòa nhòa
Liễu lòng oằn nhức, muối chà, thiết dây
Ôm mẹ biết nói gì đây
Nước mắt luồn cổ nghẹn đầy đau thương...”
Người ta vẫn thường nói, khi nỗi đau được kìm nén thì “nước mắt nuốt vào trong”. Ở đây tác giả cũng ý ấy nhưng lại có hình ảnh hơn!
“Nước mắt luồn cổ nghẹn đầy đau thương...”
Cách sáng tạo đã rất có chất lượng, chẳng những thế hồn thơ lại thật là bình dị.
Cô gái thôn quê nết na đó, nén chịu đau thương, mất mát đó bằng cách đem nghị lực và chí bền vào hành động cụ thể Hồng đã tìm ra được một lẽ sống tích cực, bởi cô hiểu rằng, tuy bây giờ người yêu cô không còn, nhưng không phải vì vậy mà cô chìm đắm mãi trong mất mát lớn đó. Mà cô phải quyết thắng cái nỗi buồn đang dìm cô xuống, mà vượt lên cùng thanh niên trong làng và bà con xây dựng ngày một to đẹp đàng hoàng hơn. Bởi vì, nó cũng chính là ước mơ của người yêu cô. Vậy là, đáp ứng được nguyện vọng của người đã khuất.
Một thời gian sau, nỗi buồn nguôi bớt, có một chàng trai có tình cảm với Hồng nhưng Hồng đã gạt đi Hồng chưa thể dành trọn trái tim cho ai được. Nhưng rồi thời gian lại trôi nhanh, Trình một người bạn của Phổ và của Hồng bị thương từ chiến trận với hoàn cảnh thương tâm mất một mắt, một tay mà khi tỏ tình với Hồng, Hồng ưng thuận. Ngày cưới đã được ấn định thì Phổ về làng, anh bị báo tử nhầm. Phổ chỉ bị bắt làm tù binh, bị giặc tra tấn. Sau này có đợt trao trả của hai bên ta và địch, Phổ được về làng. Về làng, Phổ biết tin Hồng sắp cưới, mà chồng chưa cưới của Hồng chẳng phải ai xa lạ lại là bạn anh - một thương binh.
Nỗi lòng của Phổ thật là ngổn ngang, nhưng với bản lĩnh và sự thấu đáo của người lính, Phổ đã vượt lên. Ta hãy lắng nghe thổ lộ của tâm can Phổ khi đến bên Hồng và nỗi lòng của hai người:
“... Xót xa dứt ruột khôn cùng
Tủi thương chăn gối lạnh lùng gió đông
Thăm mẹ rồi đến bên Hồng
Tĩnh tâm trò chuyện như không biết gì
Nhẹ như bấc, nặng như chì
Người thì thanh thản, người thì vấn vương
Lánh nhìn lòng lại càng thương
Càng thương! Càng thấy khó đường nói ra...”
Thế rồi Trình, chồng sắp cưới của Hồng, anh đã hiểu ra. Và đến đây cả ba đang trong mối tơ vò. Trình đã biết vượt lên. Anh có một tâm hồn cao cả đến kỳ lạ. Anh lý giải với Phổ, Hồng và đề nghị hai người trở về với tình đầu của họ. Đến đây thơ của Nguyễn Hữu Khai ngân nga như một hồi chuông dồn lên đổ hồi:
“... Đã là trọn nghĩa trước sau
Duyên vàng nhường lại cho nhau mới là
Cũng nên nghĩ đến người ta
Thủy chung đã trọn dứt ra sao đành
Nát lòng khi thấy gẫy cành
Mà tình vàng ấy vẫn dành cho ai?
Thương yêu bố mẹ hôm mai
Chăm sóc sớm tối hơn hai năm trời
Phớt lờ ong bướm ở đời
Tấm lòng vàng ngọc khắc lời hiếu chung...”
Lại nói về Phổ về sự kiện người yêu của Phổ ngày xưa và lại là vợ sắp cưới bây giờ mà giọng chí thiết chí tình như thế thì có thể nói Trình, lòng anh tâm hồn anh cao cả biết nhường nào!.
Phải rồi, Trình cũng như Phổ, tận trung, tận hiếu với nước non, đến nỗi tấm thân quý giá đâu có tiếc, xông vào cuộc chiến đấu để cùng đồng đội giành lấy chiến công. Những con người đẹp đẽ như vậy họ hẳn phải có một tâm hồn đẹp. Và xin hãy đọc tiếp lời Trình:
“... Lánh người tài đức khôn cùng
Với tôi tàn tật lại chung duyên tình
Ơn người thương mến đến mình
Nay lòng xin nguyện trắng tinh bạn đời...”
Chao ôi! Một tâm hồn cao thượng là vậy mà lại nói giản dị là vậy. Tình bạn và tình yêu hòa trộn, để rồi nguyện với lòng mình để tình bạn lên trên, bởi đó là tình của những người cùng chiến hào mà.
Xin cứ hãy đọc tiếp lời Trình:
“... Mong rằng Phổ hãy nhận lời
Để cho trọn vẹn tình đời chúng ta
Như thế thì mới gọi là
Tình sâu nghĩa nặng đậm đà cả hai
Gian nan từng trải đường dài
Gan vàng dạ sắt sao phai duyên màu...?”
Người ta nói, đã là núi phải có đỉnh, đã là một tâm hồn thanh cao thì trên đỉnh của thanh cao đó là hồi chuông của lời cao cả, lời nghĩa tình.
Phải rồi đã là mối quan hệ của tình bạn và tình yêu với đúng cái nghĩa chân xác và chính trực thì nó giản dị là vậy.
Chúng ta đọc tiếp lời Phổ:
“... Đang tươi đổi sắc thành sầu
Phổ nghèn nghẹn giọng lựa câu đáp lời:
“... Trình ơi! Lòng dạ biển trời
Chất đầy thuyền nghĩa chở lời ơn anh...”
Chúng ta thấy xúc cảm của Phổ cũng thật là chân thành và xúc cảm ở đây Nguyễn Hữu Khai đã biết dừng bút một cách chính xác rằng chỉ có thể nói được đến thế mới là Phổ và hay nhất là câu:
“... Đang tươi đổi sắc thành sầu...”
Ta hãy chú ý đến cách miêu tả chân dung Phổ của tác giả. Ở đây tác giả thật am hiểu tâm lý của những con người chân chính. Trước cái lớn lao của bạn, Phổ ngập như bơi giữa biển sâu mênh mông, đã trong cảnh huống ấy thì dầu can đảm đến đâu cũng ngợp và đã ngợp thì sao có thể “Đang tươi...” mãi được. Và sự biến sắc mặt ấy cũng chính là sự biểu hiện của môt con người có tâm hồn cao thượng, biết chừng mực. Đó là trong sâu xa Phổ không thể không chấp nhận mối quan hệ của Trình và Hồng, vì anh đã “hy sinh” rồi kia mà. Bây giờ anh trở về khi biết Hồng đã có nơi chốn mà nơi chốn lại chính là bạn anh, Phổ đã phần lớn tự lấy lại trong tâm hồn mình sự bình yên và cũng sẽ mừng cho đôi lứa đó rồi. Bởi nên sự thay đổi của Trình với Hồng và Phổ, với Phổ nó quá lớn lao, quá cao và quá đẹp.
Ta hãy để ý đến tâm trạng Hồng:
“... Rằng: Bên Trình một năm thừa
Tháng ngày sóng gió nắng mưa có Trình
Thương người quá nỗi thương mình
Rút tơ, luộc nhộng nấu tình xót xa...”
Quê hương Hà Tây có nghề truyền thống trồng dâu nuôi tằm, kéo tơ, dệt lụa.
Sự đau xót, dằn vặt đấu tranh tư tưởng của Hồng đã được tác giả khắc họa bằng hình ảnh ”ươm tơ kéo kén”: (Muốn lấy tơ từ kén tằm người ta phải cho kén vào nước sôi, mà trong kén có con nhộng. Nhộng phải chìm nổi trong nước sôi lửa bỏng). Đây là lúc Hồng nghĩ tới sự nối lại tơ duyên cùng Phổ thì khác nào sợi dây tơ tình ấy được rút ra từ kén và sự đau đớn khổ sở của Trình khác nào như con nhộng bị luộc trong nước sôi. Và như thế thì lòng dạ nào Hồng có thể cam chịu vì vậy nên:
“... Lòng nào thêu gấm dệt hoa
Muốn phơi nắng gió phôi pha một đời!...”
Chị đã định giãi tình đời phơi trong nắng gió, chả thà chấp nhận mất tất cả... và thế rồi chị đã chết ngất trước hai bạn đời.
“Tâm can vò xé tơi bời
Mắt mờ giọng nghẹn, hồn rời khỏi hoa
Thương ơi! Lặng ngất giữa nhà
Ôm chân, ôm cổ xót xa hai lòng...”
Đau xót dâng trào trong lòng Trình và Phổ nhưng họ chỉ dám lao vào “... Người ôm chân, kẻ ôm cổ” đúng là nghĩa cử của những chàng thanh niên thời ấy.
Và dưới đây nữa. Nếu trong tập truyện thơ này có đoạn nào hay nhất được lấy ra trong vô số đoạn hay thì đoạn dưới đây tôi cho là hay đến ngất lòng người đọc:
“...Tỉnh ra, lệ nóng tuôn dòng
Thề xưa, xối xả những mong giữ lời
Ân tình đành trải đôi nơi
Tình đầu nối lại một đời một dây
Bình vơi sẻ nước ắp đầy
Cơm sôi giảm lửa căng dây nới chùng
Các anh đã một ý chung
Tim em một nhịp hòa cùng các anh
Hoa xưa lại được nhập cành
Ơn người rộng lượng ghép lành gương tan...”
Trong tiểu thuyết và cả trong truyện thơ, tâm trạng con gái, phụ nữ bao giờ cũng rất khó miêu tả đối với người viết. Vậy mà ở đây tác giả đã không những tả đúng trạng huống của Hồng, một cô gái đang đứng trước ngã ba đường tình. Cả hai đều đã có tình yêu và đã có tình thương. Thật là rắc rối tơ lòng mà còn tả rất đúng tâm lý của một cô gái quê thuần hậu. Khôn ngoan, biết tiến thoái đúng mức và luôn biết xử lý một cách hợp lý và chẳng hề chìm đắm trong bi thương khốc liệt.
Con người cao cả thì cả lý và tình đều rạng rỡ. Những con người đẹp, cao thượng khôn khéo và dũng cảm như vậy nay trong tình yêu thì làm sao mà lại không thể đánh thắng kẻ thù lớn là đế quốc Mỹ cho được.
Trong chủ đề là tình yêu và cách cư xử với tình yêu, Nguyễn Hữu Khai đã làm một quy chiếu với phổ quát rộng lớn đó là: Đất nước mình ngày ấy đã sản sinh những thế hệ con trai, con gái tuyệt vời biết bao.
Nguyễn Hữu Khai quả là đã thành công trong tập truyện thơ này. Điều quan trọng hơn nữa là khi đang đọc tập truyện thơ này của Khai ta lại thấy như thấp thoáng giữa những dòng thơ của Khai hiện lên những tập thơ khác nữa. Chúng ta mong được đón đọc tiếp những tập thơ mới của anh.
Hà Nội, 10-1999
VIII. CẢM NHẬN "TÌNH QUÊ” (TRUYỆN THƠ CỦA NGUYỄN HỮU KHAI) - Thu An
Sâu thẳm và trong trẻo như mạch nước ngầm giữa lòng đất, “Tình Quê” cứ từ từ thấm sâu vào lòng người đọc. Với tôi cũng vậy. Thoạt tiên, tôi không có ấn tượng mấy về cuốn truyện thơ này, một phần vì thơ bây giờ đa dạng quá, phong phú quá nên khó đọc, và cũng không dễ tìm thấy sự đồng cảm, một phần do cảm giác là nó lỗi thời. Tôi cứ đọc như một cách giải trí lơ đãng. Thế rồi bất chợt nhận ra có cái gì đó cứ âm thầm chảy theo từng dòng chữ, từng câu thơ. Tình quê đấy, hồn người đấy. Tôi lại bắt đầu từ trang đầu tiên, từ những câu thơ đầu tiên:
Đa già rủ mát chân đê
Che làng nho nhỏ bên lề núi xanh
Êm đềm sông Đáy lượn quanh
Dập dìu thuyền nhún, méo vành trăng thu
Một không gian mở, một bối cảnh thật gần gũi để rồi trong đó xảy ra bao nhiêu chuyện tình cảm động. Không gian ấy, bối cảnh ấy chưa xa hiện tại là mấy nhưng đọc lên cứ như vương vấn chút hoài cổ. Một làng quê thật đẹp, thật yên bình với bóng đa già, bờ đê, dãy núi, với dòng sông hiền hòa trong vắt in vành trăng thu. Một làng quê như ta từng biết qua ca dao, dân ca, qua những mùa lễ hội. Cứ tưởng nơi đó chỉ có cuộc sống thanh bình, êm ả, có trai thanh, gái lịch nhưng cũng rất giỏi giang, có tiếng sáo mục đồng mỗi khi chiều xuống, có những bậc ông bà, cha mẹ cứ tối tối lại kể chuyện cho con cháu nghe để răn dạy bao đạo lý ở đời. Thế nhưng tất cả bỗng chốc bị phá vỡ bởi bom đạn, khói lửa của chiến tranh:
Nhớ ngày bom ngắt lời ru
Nát hoa đục nước bóng thù vởn mây
Chim thơ, lửa xối tan bầy
Sập cầu, nát chợ, gẫy cây, đổ trường
“Lửa thử vàng, gian nan thử sức” bản chất mỗi con người sẽ được bộc lộ rõ nhất trong hoàn cảnh ngặt nghèo. Và ở đây, ở làng quê của những con người thuần hậu, chân chất, cái tình được biểu hiện chân thành, rõ rệt hơn bao giờ hết. Đó là tình yêu trong sáng, thủy chung của Hồng- Phổ, tình cảm chân thành, cao thượng của Trình - Hồng, mối tình hiểu biết trân trọng nhau của anh giáo, rồi tình làng nghĩa xóm... Tất cả nằm trong một mối tình thiêng liêng hơn, cao cả hơn tình yêu quê hương đất nước. Người ta biết sống vì nhau nên biết hy sinh cho nhau. “Tình Quê” đã khái quát được khá đậm nét bối cảnh của những năm từ 1968 đến 1972. Giai đoạn chiến tranh phủ kín cả nước. Thời chiến tranh, bao nhiêu làng quê miền Bắc đều trải qua những năm tháng như vậy. Trai làng đua nhau tòng quân, tìm mọi cách để được ra chiến trường quyết tâm giải phóng miền Nam, con gái ở làng thi đua “ba đảm đang”, làm tốt công tác hậu phương, quyết tâm giữ gìn và xây dựng chủ nghĩa xã hội để yên lòng người ra tiền tuyến rồi những mất mát hy sinh... Những câu chuyện của một thời ly loạn đi đâu cũng gặp, nhìn đâu cũng thấy. Nhưng dồn nén tâm tư, tình cảm của mình, ấp ủ bao nhiêu năm trời để viết thành truyện thơ thì không mấy ai. Và hình như cũng chẳng ai nghĩ phải làm điều đó trong thời buổi này. Anh không phải là nhà thơ chuyên nghiệp. Anh là một nhà kinh doanh thành đạt, một Lương y, Võ sư nổi tiếng, từng làm báo viết văn nhưng in thơ mà lại là truyện thơ lục bát thì quả thật anh có... dũng khí. Có lẽ do anh không bị nằm trong vòng chi phối bởi bao nhiêu ràng buộc, đè nén, soi mói của cuộc sống, anh không ngại để người khác bình phẩm, đánh giá như anh từng viết trong “Tình Quê”:
...“Khen chê xin nhận cũng như cho vàng”
Và cũng không tuân theo một thủ pháp nghệ thuật cầu kỳ nào, anh cứ viết theo lối kể chuyện dân dã, bình dị, viết theo mạch cảm xúc của mình. “Tình Quê” vì thế không phải là một áng thơ hay theo “mốt” thẩm mỹ đương thời nhưng xuyên suốt cả tập thơ là sự hồn nhiên trong trẻo, là tình yêu làng xóm quê hương đậm đà tha thiết. Thơ văn bây giờ mỗi ngày mỗi mới mẻ, cả hình thức biểu hiện lẫn nội dung. Có lẽ do hoàn cảnh xã hội tác động, người ta không nói nhiều đến cái chung nữa mà thường đi vào mổ xẻ những cái riêng trong mỗi con người với đủ các cung bậc, âm sắc và cũng thật khó phân định tình nào là chân, là giả, đôi lúc cứ như nhìn nghệ sĩ xiếc biểu diễn trò tung hứng. Còn anh? Anh tẩn mẩn đi tìm những gì cha ông xưa từng có, những gì thế hệ bây giờ có lúc lãng quên. Thơ anh đôi khi nghe giống một câu ca dao, một câu hò đối đáp ở làng quê, có lúc lại nghe như những lời thủ thỉ, tâm tình nhưng không hề gượng ép để thành thơ, như tự thân nó đã là thơ. Chính sự mộc mạc dung dị đó gợi lên trong lòng người đọc một thứ tình cảm nhẹ nhàng nhưng đằm thắm, sâu lắng:
... Đã là trọn nghĩa trọn tình
Người tuy khuất bóng, nghĩa mình còn đây
Giữ hoa khỏi phụ tình cây
Trên nhà hai cụ cũng đầy đau thương
Nén lòng giữ nét bình thường
Con lên trên đó liệu đường nói năng...
Không chỉ có vậy. Có những câu thơ hay được phát hiện bằng một trực giác nhanh nhạy và tinh tế, sự quan sát mới mẻ, hồn nhiên và bằng tấm lòng của một người thiết tha yêu quê hương đến từng gốc cây ngọn cỏ:
... Mây trăng đùa dưới giếng đình
Gió hiu hiu thổi rập rình ngọn tre
Góc vườn đom đóm lập lòe
Đu trên mặt lá, lén nghe chuyện người...
*
* *
... Nắng trưa nhuộm trắng áo chàm
Mặt ruộng bùn nhuyễn muốn giam chân người
*
* *
... Trời xuân dào dạt mây trôi
Cành tơ đón nắng đâm chồi nở hoa
Sóng hồ phơi nắng chiều tà
Liễu xòa đùa nước, la đà cành xanh...
Cách anh ví von, ẩn dụ, sử dụng thành ngữ, tục ngữ đẹp và nhuần nhuyễn như là dân ca:
... Núi cao, núi thấp họ trông
Phụ ta, ta sẽ phản công bất ngờ
... Bao ngày đắp đập, be bờ
Dễ gì thiên hạ đem lờ đến đơm
*
* *
Lòng nào thêu gấm dệt hoa
Muốn phơi nắng gió phôi pha một đời
*
* *
... Bình vơi sẻ nước ắp đầy
Cơm sôi giảm lửa, căng dây nới chùng
Tôi biết anh không có ý định xây dựng một hình tượng nhân vật điển hình nhưng với nhân vật Hồng, gần như anh đã làm được điều đó. Hay đúng hơn là anh đã tạo một mẫu người được nâng lên đến mức hoàn thiện. Hồng đẹp người, đẹp nết, thông minh đảm đương việc nước, việc nhà, thủy chung trong sáng trong tình yêu, chân thành trong tình bạn; cả cái cách Hồng từ chối tình yêu và thuyết phục Tú góp sức chung lòng xây dựng quê hương cũng đáng yêu làm sao. Hồng đại diện cho lớp người phụ nữ đẹp của nông thôn miền Bắc thời đó.
Thơ của Nguyễn Hữu Khai là vậy, có lúc chân chất, thật thà như một anh nông dân, có khi tài hoa như một người làm thơ thứ thiệt. Tôi cũng không hiểu tại sao sau bao nhiêu dâu bể cuộc đời và trong một xã hội luôn biến động, thay đổi, kể cả cách nhìn về quá khứ, anh vẫn luôn giữ được cho mình cái mạch ngầm trong trẻo của “Tình Quê” để đúc kết thành thơ.
TP Hồ Chí Minh, 12/3/1999
IX. THƠ ANH NẶNG MỘT CHỮ TÌNH (NHÂN ĐỌC TRUYỆN THƠ “Tình Quê” CỦA NGUYỄN HỮU KHAI – NXB VHTT-1998) - Hà Quốc Trị
Có nhiều anh chị hỏi tôi cảm xúc khi đọc “Tình Quê” của Nguyễn Hữu Khai. Tôi thưa ngay: Những gì cần nói, những gì muốn nói thì trong “Lời nói đầu” của tập thơ, nhà thơ Vũ Duy Thông đã nói gần như đầy đủ. Tôi đâu có dám làm cái việc của anh thợ vụng múa rìu qua mắt thợ giỏi, có chăng tôi chỉ xin nói lên những tính cách của tác giả mà tôi vốn là chỗ thân tình.
Tôi quen biết Khai đã gần hai chục năm nay. Đã từng có dịp làm chung, ăn chung và cũng đã từng có dịp chứng kiến những bước thăng trầm của con người đa tài, đa tình dạn dày sương gió từ khi anh bước chân vào Sài Gòn. Có những phen tôi tưởng anh không thể vượt qua những trái ngang nghiệt ngã của cuộc đời riêng, chung. Ấy vậy mà chẳng hiểu sức mạnh nào đã giúp anh vượt qua được “phong ba bão táp” để đứng dậy, để vươn lên, để đi tới. Nhìn bên ngoài lúc nào cũng thấy Nguyễn Hữu Khai ung dung thanh thản và cứ tưởng rằng: Giờ đây mọi trí lực của anh đã dồn vào hết cho công việc kinh doanh đầy gian nan, gai góc để đảm bảo cuộc sống cho mấy trăm con người đã từng theo anh sản xuất thuốc Đông Nam dược. Vậy mà anh vẫn tận tụy khám chữa bệnh cứu người, anh vẫn dạy võ thuật, anh vẫn viết báo, viết văn và còn làm thơ nữa! Thơ anh viết khá nhiều, nhiều thể loại. Nhưng có lẽ tại thời điểm này tập truyện thơ “Tình Quê” là dài nhất viết theo thể lục bát.
Vì là thơ lục bát dễ đọc, dễ nhớ nên tôi đọc một mạch từ trang đầu đến trang cuối. Đọc thơ Khai tôi thấy hay, cái hay không chỉ ở câu chữ vì Khai đâu có phải là một nhà thơ chuyên nghiệp. Anh là Thầy thuốc, anh là Võ sư, anh là nhà kinh doanh nhạy bén và rất năng động. Thơ của Khai là cái tình của Khai, đối với bạn hữu cùng trang lứa, với bà con xóm làng, với kỷ niệm của nửa đời người. Anh mở ra, anh trải ra, giãi bày ra để chúng ta cùng chia sẻ và cùng sống lại một thời hào hùng với những chàng trai, những cô gái trên mọi miền quê đất Bắc của ba bốn chục năm về trước.
Đọc thơ Khai, ta như cảm nhận được cái thần khí tiềm ẩn sau câu chữ, lúc thì mộc mạc dung dị, lúc thì uyên bác cao siêu. Lời lẽ, ý tứ luôn toát ra những hình ảnh tinh tế và sinh động. Thơ Khai là lòng tự tin, lạc quan, yêu cuộc sống mặc dù cuộc sống còn đang bề bộn bao nỗi lo toan vất vả. Phải chăng Khai muốn gửi gắm tất cả cái tình của mình vào thơ: Một tình yêu chân chất, đằm thắm mênh mông, một tình yêu giản dị chân thành với quê hương, với con người. Phải chi giờ đây còn có được nhiều người còn giữ cái tình giản dị đậm đà mà thiêng liêng ấy nhỉ! Nhất là lúc người ta có chức trọng quyền cao và đang ở trong một cơ chế còn chộn rộn này?
... Gấp cuốn “Tình Quê” lại rồi, tôi thẫn thờ hồi tưởng và ước gì mình được trở về vùng quê êm đềm, xinh đẹp như tranh, như thơ “Tình Quê”. Nơi ấy có một con người hiền lành mến khách, nặng nghĩa nặng tình, nơi ấy có nương dâu bãi mía xanh ngan ngát uốn lượn theo dòng sông Đáy mát ngọt phù sa. Nơi ấy đã một thời tôi được bà con cưu mang khi cơ quan về đó sơ tán. Và nơi ấy cũng là nơi chôn nhau cắt rốn, là quê hương trăm nhớ ngàn thương của con người đa tài, đa tình Nguyễn Hữu Khai. Phải chăng cái hay của “Tình Quê” là vì thế!
24.03.99
X. CẢM XÚC VỀ “TÌNH QUÊ” CỦA NGUYỄN HỮU KHAI - Nguyễn Hữu Túc
Đa già rủ mát chân đê
Che làng nho nhỏ bên lề núi xanh
Êm đềm sông Đáy lượn quanh
Dập dìu thuyền nhún méo vành trăng thu...
Bốn câu thơ đầu trong “Tình Quê” của Nguyễn Hữu Khai đã thật sự khai nguồn cảm xúc cho những ai đã đọc “Tình Quê” mà không thể không đọc hết.
Là một học sinh lớp 12 với bề bộn những Toán, Lý, Hoá,... chuẩn bị cho kỳ thi đại học sắp tới, song dường như nó là chuyện “ngoài lề” mỗi khi trên tay tôi có “Tình Quê”. Tôi xin miễn được bàn đến phong cách nghệ thuật cũng như sự lãng mạn của một chất thơ nào đó. Ở đây bởi với Nguyễn Hữu Khai tất cả những cái đó chỉ là sự tinh tế khi nhìn lại quá khứ về một vùng quê bình dị như bao vùng quê khác nơi tác giả sinh ra và lớn lên. Sự tinh tế đó cùng với một sự sáng tạo nghệ thuật mà tác giả ghép vần thành một thể loại gọi là “Truyện thơ”.
Từ tiếng hát đưa nôi đến lời ru của mẹ, từ những câu ca dao hò vè, đến những điệu hát ví dân gian. Tất cả là vốn sống, là những dòng cảm xúc tâm linh, để các thi sỹ bước vào làm thơ. Nguyễn Hữu Khai cũng vậy, ông viết “Truyện thơ” bằng sự tĩnh tâm, hồi tưởng của mình về quá khứ, cái mà gọi là “sự sáng tạo nghệ thuật” có lẽ cũng bắt nguồn từ tiếng hát đưa nôi đến lời ru của mẹ ấy.
Với những Trình, Phổ, Hồng, Long, Nga... tác giả đã thực sự mang đến trước mắt người đọc một bức tranh tuyệt đẹp về “Tình Quê”. Họ là:
“Những con yêu của quê hương,
Náo nức tình nguyện lên đường tòng quân”.
Họ sốt sắng tình nguyện, thậm chí làm mọi điều để có thể được đi bộ đội bất chấp những gian nguy phơi bày trước mắt:
... Nhớ ngày bom ngắt lời ru
Nát hoa, đục nước bóng thù vởn mây
Chim thơ lửa xối tan bầy
Sập cầu, nát chợ, gẫy cây, đổ trường
Nhưng có lẽ đấy chính là điều hối thúc họ lên đường và những cặp tình duyên đã quyến luyến nhưng vẫn vui vẻ và sẵn sàng chia tay nhau để lên đường tòng quân:
... Dập dìu cánh phượng cổng nhà
Vẫy tiễn Hồng, Phổ bước ra ngoài đường
Đầm sen ngào ngạt tỏa hương
Khăn, đàn tha thướt dọc mương tới hồ...
Gói xôi thơm nức đỗ xanh
Gói tôm rang, gói dưa hành trao tay...”
Đó chỉ là một bức tranh bình dị trong vô vàn bức tranh bình dị mà“Tình Quê” nói đến.
Những đôi nam nữ mà ở đây đại diện là Hồng, Phổ lưu luyến chia tay để Phổ lên đường trong một không khí náo nức với đầy những hương sen, cung đàn. Họ lên đường với một quyết tâm cao, mong mang lại sự bình yên cho Tổ Quốc mà an tâm rằng họ có một hậu phương vững chắc để rồi Phổ đã vì nước quên thân, hy sinh anh dũng...
Đó là những điều có thể nói rằng rất bình thường của nhân dân ta trong thời kỳ kháng chiến. Song với “Tình Quê” sự hy sinh mất mát, tinh thần vì nước quên thân lại sừng sững như núi cao và bao la như biển cả, đó là lớp người đại diện cho vô số những lớp người đã hy sinh ở bất cứ nơi đâu, sự hy sinh của họ cũng khiến người thân đau buồn vô hạn. Ở đây ta thấy được một Nguyễn Hữu Khai, người mà đã biết hòa đồng, biết biến sự đau thương của người khác như của chính mình để rồi đưa nó vào những câu thơ chân chất ấy.
..... “Con ơi! Bớt nỗi buồn phiền
Cảnh chung cả nước phải riêng đâu mình”
*
* *
..... “Ông rằng: Ai chẳng xót thương!
Chiến tranh mất mát lẽ thường xảy ra
Xót xa đâu phải riêng ta
Đau thương, thù giặc trăm nhà sục sôi”
Một nhà thơ thực thụ họ biết nhìn đời hay nói đúng hơn là họ thích nhìn đời theo cách riêng của họ, khác người, lãng mạn hay đại loại như thế. Nhưng với Nguyễn Hữu Khai thì khác, ông nhìn những điều vốn chất phát nhất đời thường để biến nó thành thơ và tạo thành phong cách thơ riêng cho mình.
... “Thường khi đánh bại quân thù
Khểnh lưng trên chiếc võng dù ngắm trăng
Gió reo vui nhủ thầm rằng
Thù chung đã trả ở đằng sau ta
Vui cảnh lại nhớ quê nhà
Nhìn núi lại nhớ mẹ già xa xôi...”
Đó chính là sự tinh tế của Nguyễn Hữu Khai bởi nhà thơ đã biết nhìn nhận sự bình dị ấy của người lính kia dưới một con mắt đầy san sẻ mà biết đâu nhân vật trữ tình trong đoạn thơ trên chính là tác giả (?).
Ở quê nhà, một cảnh nông thôn đầy sự bình dị với những:
“... Bóng rơm ấp ủ đàn gà
Bếp tranh nhả khói la đà ngọn tre...”
Đã được nhà thơ lột tả hết sức tinh tế bởi nó là một cảnh tượng hết sức quen thuộc, dân dã ở chốn thôn quê mà người bình thường thoáng nhìn qua sẽ không thấy được cái hay, cái đẹp, cái thơ mộng của nó.
Cái hay, cái đẹp trong thơ Nguyễn Hữu Khai là ở chỗ đó. Ông biết viết những gì mọi người vốn đã biết nhiều về nó song không có dịp hoặc không để tâm, để ý đến nó.
Tôi chỉ dám viết đến đây bởi nếu viết tiếp nữa tôi sợ rằng mình không có đủ trình độ để nói về tác giả “Tình Quê” ấy. Ở Nguyễn Hữu Khai vẫn còn nhiều điều chúng ta cần khám phá và sẽ rất thú vị, đấy là tôi còn chưa nói đến tác giả “Tình Quê” rằng ông đã từng và hiện nay đang là một Lương y, một Võ sư, Tổng giám đốc một Công ty Đông nam dược lớn...
Cảm ơn nhà thơ, cảm ơn “Tình Quê”, cảm ơn nơi đã sinh ra và nuôi dưỡng nên Nguyễn Hữu Khai, người mà với “Tình Quê” của mình đã khiến người già có dịp để “ôn cố tri tân” về một vùng quê thời ấy, một thời lẫy lừng của đất nước. Còn cho lớp trẻ ngày nay biết thế nào là tình yêu thương gắn bó với quê hương
Hà Đông, 20.03.99
Giới thiệu tác giả
QUA MỘT TRUYỆN KÝ CỦA
NHÀ VĂN VÕ KHẮC NGHIÊM
(ĐĂNG TRÊN BÁO VĂN NGHỆ SỐ 30 (2010) THÁNG 7 NĂM 1998)
CHUYỆN MỘT LƯƠNG Y
Nhà văn Võ Khắc Nghiêm
Tôi đã từng nghe danh tiếng các loại thuốc của Bảo Long. Một anh thợ mỏ bạn tôi ở Cẩm Phả bị rò tủy, sưng khớp lâu năm, nhờ dùng thuốc Hỏa Long của Công ty Bảo Long đã khỏi bệnh... Tôi nghĩ vị Lương y phụ trách một công ty lớn này phải là người có gốc gia truyền về thuốc và từng trải. Trong trí tưởng tượng của tôi đó là một ông già quắc thước, râu tóc bạc trắng... Nhưng không, Lương y – Võ sư Nguyễn Hữu Khai còn rất trẻ, dáng vẻ hoạt bát, nhanh nhẹn và lịch thiệp. Dường như anh rất thân thiết với các phóng viên nhà báo. Được ông Lê Thấu - Tổng biên tập báo Sức khỏe và Đời sống giới thiệu, Lương y Khai nắm chặt tay tôi khá lâu: “Văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình! Gặp được nhau là duyên kỳ ngộ rồi đó!”. Giọng nói của anh với cặp mắt cởi mở khiến tôi ngờ ngợ. Hình như tôi đã gặp con người này, đã nhìn thấy cặp mắt này, nghe giọng nói này ở đâu đó. Tôi cố lục tìm bộ nhớ của mình khá lâu. Mãi đến khi Nguyễn Hữu Khai nói về thời điểm anh vào Sài Gòn với hai bàn tay trắng trên một chuyến xe tốc hành bị cướp ở đèo Hải Vân tôi mới ồ lên và nhớ ra: Chính tôi cũng có mặt trên chuyến xe đó. Tôi ngồi cạnh một người phụ nữ buôn chuyến có nước da mai mái và cặp mắt lờ đờ sau nhiều ngày thiếu ngủ. Chị ta ôm khư khư chiếc túi du lịch căng phồng và ngủ gà ngủ gật suốt chặng đường dài đến đèo Hải Vân mới choàng tỉnh dậy bởi sự kéo đẩy rất mạnh của một gã đàn ông mặt rỗ với con dao sáng loáng trong tay. Có lẽ hắn và đồng bọn đã bám theo chị ta từ lúc chị nhận tiền ở Hà Nội và chỉ chờ lúc trời nhá nhem, chiếc xe vượt quãng đèo vắng vẻ hắn mới giật phăng túi tiền, phóng ra cửa xe. Ở đó có một tên trọc đầu đã mở sẵn cửa xe, chúng theo nhau lăn xuống đường. Từ trên xe một chàng thanh niên cao gầy, mặc áo xanh, đã lao theo chúng. Chiếc xe dừng lại nhưng không ai dám xuống giúp chàng thanh niên kia trong lúc vật lộn với tên cướp. Tôi cố lén ra phía cửa, đúng lúc anh chàng áo xanh bằng một thế võ bí hiểm đá bay con dao trên tay tên cướp và quật hắn đổ sập như người ta chặt một cây chuối. Anh phụ xe đã kịp lao đến trói tay tên mặt rỗ bằng một sợi giây dù. Tên cướp còn lại định ôm bọc tiền chạy suốt khe suối. Nhưng chàng áo xanh đã phóng như bay về phía đó và quật ngã hắn dễ dàng. Khi hai tên cướp bị trói chặt vào chân ghế, chiếc xe lại chuyển bánh. Anh chàng áo xanh xách túi tiền: “Của ai đây nhỉ?”. Mọi người dồn mắt về chị buôn chuyến, nhưng có thiếng thét lên: “Chị ta bị ngất xỉu rồi. Dừng xe lại!”. Chàng áo xanh xách túi tiền đến chỗ chúng tôi và nói như ra lệnh với bác tài: “Cứ chạy nhanh về Đà Nẵng hẵng hay!”. Anh ta đỡ chị buôn chuyến ngả lưng vào thành xe, bắt mạch: “Chị này yếu tim, sợ quá bị ngất đấy thôi!”. Anh ta rút trong túi áo một chai dầu nhỏ xoa vào gan bàn chân và bấm huyệt... Vài phút sau chị buôn chuyến đã tỉnh lại... Công an thành phố Đà Nẵng yêu cầu người bắt cướp và cả chị buôn chuyến ở lại làm biên bản, sau đó họ sẽ lo xe cho đi Sài Gòn. Thế là tôi không thể biết thêm gì về anh chàng áo xanh dũng cảm và tốt bụng đó. Tôi nghĩ đó có thể là một chiến sĩ đặc công, một chiến sĩ săn bắt cướp, không ngờ đó lại là một Lương y đang “thất nghiệp”.
Trái đất tròn, chúng ta lại gặp nhau sau hơn 15 năm Võ sư Khai cười rất vui – Anh biết không, hồi đó tôi không có nổi một trăm ngàn trong túi, nhưng khi chị ấy cho tôi một cục tiền to, chẳng biết là bao nhiêu nữa, tôi không dám nhận. Đó là người đàn bà có tình, có nghĩa, sau này cứ muốn gả cô em gái cho tôi và đã giúp tôi rất nhiều trong việc mở rộng các quan hệ làm ăn ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Thế còn tên cướp mặt rỗ? Hắn có tìm anh trả thù không? – Tôi hỏi với sự phiêu lưu của những phim găng – tơ Hoa Kỳ.
- Ồ không! Nhưng tình cờ tôi lại chạm trán với cả băng của hắn khi chúng tranh giành thị trường bán thuốc ở bến xe Miền Tây với anh em chúng tôi. Cuối cùng thì chính ông thầy của hắn – một Võ sư có hạng đã kết nghĩa anh em với tôi, nói rằng hắn thực sự muốn hoàn lương. Tôi đã giúp hắn có việc làm. Bây giờ hắn đang là bảo vệ của một khách sạn lớn. Dịp nào anh vào Sài Gòn, tôi sẽ dẫn anh gặp, tha hồ mà viết về những cuộc đời thú vị của cánh giang hồ đã biết hướng thiện.
Nguyễn Hữu Khai sinh năm Nhâm Thìn trong một gia đình nông dân nghèo ở thôn Kinh Đào, xã An Mỹ, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây. Năm 18 tuổi anh vào bộ đội, chiến đấu ở chiến trường B5. Năm 1975 về học Đại học kiến trúc. Nhưng thấy quê hương nghèo đói, bệnh tật anh quyết chí đi học nghề làm thuốc. Vốn thông minh, chịu khó và cầu thị, Nguyễn Hữu Khai đã được những thầy lang, những Võ sư giỏi ở trong nước tận tình chỉ bảo. Nghe lời khuyên của một Lương y nổi tiếng, anh đã phiêu bạt sang nước bạn Trung Hoa sống trong những làng thuốc, làng võ nổi tiếng của người Tàu. Anh tự học tiếng Trung Quốc, dành giụm tiền mua sách thuốc và nhanh chóng nắm bắt được những nguyên lý cơ bản của phương pháp chữa bệnh Đông y, với nền triết học Đông phương mở ra cho Nguyễn Hữu Khai những mơ ước lớn. Trở về nước trong lúc chiến tranh biên giới xảy ra. Anh đã bị bắt với những nghi ngờ và trở thành một tù nhân bị giam chung với những tên đầu gấu nguy hiểm. Chính những ngày không vui này đã giúp anh nhận thức được ý nghĩa của cuộc sống và phải biết hoàn thiện mình thế nào. Anh đã trừng trị những tên đầu gấu và chứng minh được với các cán bộ chiến sĩ công an rằng mình vô tội. Anh làm phiên dịch tiếng Hoa, vận động những tên tội phạm nhận rõ được cái thiện, cái ác và anh đã được trở lại tự do với đầy đủ tem, phiếu và cả công văn cho địa phương với những lời lẽ tốt đẹp. Lòng tràn ngập niềm vui sau những năm tháng xa quê, Nguyễn Hữu Khai hăng hái bắt tay vào công việc chữa bệnh cho nhân dân trong xã. Ngôi nhà của anh càng ngày càng trở nên chật chội bởi người đến chữa bệnh quá đông. Tiếng lành đồn xa, cả những người miền núi cũng kéo đến chữa bệnh. Có lúc phải nuôi ăn bệnh nhân hàng tháng mà chỉ được trả ơn bằng một bao tải măng tre. Nghèo nhưng mà vui vì các bệnh nhân đã khỏi, lại không phải đi xa tốn tiền. Rừng quê anh khá nhiều thuốc quý, anh em, bạn bè cùng giúp nên không đến nỗi vất vả lắm. Nhưng... đời vẫn thường thế... y tế xã, y tế huyện đâu có muốn anh nổi tiếng? Phải có bằng bác sĩ, y sĩ mới được cấp giấy hành nghề. Vậy là cái “bệnh viện” mi ni của anh phải đóng cửa. Thất nghiệp lại bị đối xử giống như những kẻ có tiền án tiền sự khác. Anh đã quyết định theo đoàn kinh tế mới vào Nam lập nghiệp.
Sau những ngày mượn danh thiên hạ để hành nghề, để tranh giành thị trường, Nguyễn Hữu Khai đã theo học một khóa đào tạo lương y. Chưa học xong anh đã được mời tham gia giảng dạy tại trường trung cấp Y Dược học dân tộc. Thế rồi vận may đã đến với anh, nhờ chữa bệnh cho nhiều cán bộ chiến sĩ công an, anh đã được công an thành phố Hồ Chí Minh tin cậy giao cơ sở sản xuất thuốc cho anh quản lý. Chính anh là người đã lập phương án về việc sử dụng công nghệ tiên tiến để sản xuất thuốc Đông Nam dược, thay vì cải tạo, nâng cấp sản xuất Tây dược rất khó cạnh tranh với các hãng tân dược lớn của nước ngoài đang bắt đầu mở rộng ở Việt Nam. Công ty Đông Nam dược Bảo Long đã ra đời vào đúng thời kỳ đất nước đổi mới.
- Thế bây giờ các anh đã sản xuất bao nhiêu loại Long rồi? – Tôi hỏi Lương y Khai.
- Hai mươi mốt và sẽ là ba mươi loại thuốc trước năm hai ngàn.
- Doanh số hàng năm?
- Xin bí mật! Chỉ nói với anh thế này: Thuốc của chúng tôi đã xuất khẩu sang Nga, Pháp và các nước Đông Nam Á... Chúng tôi đang liên doanh với Đài Loan và chuẩn bị có chi nhánh ở Trung Quốc, châu Phi...
Dù Nguyễn Hữu Khai có muốn giữ bí mật về doanh thu với báo chí thì anh cũng khó giấu nổi các cơ quan thuế, bởi Công ty và các chi nhánh của anh luôn được họ đến kiểm tra và thừa nhận là một đơn vị biết quản lý kinh tế, luôn hoàn thành nghĩa vụ. Bây giờ với gần 300 công nhân chuyên sản xuất thuốc và mạng lưới tiêu thụ ở khắp đất nước, Công ty Đông Nam dược Bảo Long đã góp phần đáng kể trong việc chăm sóc sức khỏe cho người lao động, tạo nhiều việc làm mở ra những triển vọng tốt đẹp. “Người Việt Nam, dùng thuốc Việt Nam” vừa tiện lợi vừa đỡ tốn kém.
Tôi đã có dịp tiếp xúc với nhiều bệnh nhân được Lương y Nguyễn Hữu Khai điều trị khỏi một số bệnh mãn tính nguy hiểm mà với Tây y buộc phải phẫu thuật hoặc chỉ uống thuốc giảm đau kéo dài như bệnh trĩ, bệnh sa dạ con, ung thư cổ, tràng nhạc, hen suyễn, đau cột sống, thần kinh tọa, viêm loét dạ dày, đường ruột... Tôi cũng đã được đọc những bức thư cảm ơn đầy xúc động của ông Trần Đình Chiếu, 78 tuổi ở phố Tôn Thất Đản, của anh Đỗ Mạnh Tâm đường Bạch Đằng (thành phố Hồ Chí Minh), của các cụ ở câu lạc bộ người cao tuổi Quy Nhơn, của Trung tá Tô Văn Sính, cục Tài chính Bộ Quốc phòng... Những lá thư ấy có nội dung là cám ơn Lương y Nguyễn Hữu Khai, nhờ dùng thuốc Bảo Long mà nhanh chóng khỏi bệnh nhiều năm đau đớn và tốn kém. Có một bà Việt kiều ở Mỹ về nước với ý định cắt trĩ, cắt dạ con vì theo bà chi phí phẫu thuật ở Mỹ rất lớn, nhưng không gần gũi với người thân lỡ có mệnh hệ gì khổ lắm! Nghe cậu em ruột giới thiệu “Thầy Khai”, dù không tin vào tài năng chàng Lương y trẻ xứ Bắc kỳ, bà đã “liều” uống thuốc của Nguyễn Hữu Khai và đã hoàn toàn khỏi bệnh. Bà muốn tạ ơn thầy bằng số đôla đáng ra phải trả ở Hoa Kỳ, nhưng Nguyễn Hữu Khai đã từ chối khéo.
Nguyễn Hữu Khai đã có công đào tạo hàng trăm học trò và phải chăng những người học trò ấy có đủ vốn liếng, kinh nghiệm đã trở thành những đại lý tin cậy của Bảo Long! Anh đã thật lòng vì họ và họ cũng hết lòng vì anh và vì cả công ty “cơ chế thị trường khốc liệt lắm. Phải biết giữ chữ tín và biết gây dựng tình nghĩa lâu bền”. Đó là điều Nguyễn Hữu Khai thường nhắc nhở công nhân cán bộ của mình.
Tôi hỏi: - Thế có ai phản lại anh không?
Nguyễn Hữu Khai bỗng tư lự hồi lâu:
- Về võ thuật thì hầu như không. Nhưng về thuốc thì cũng có đấy. Thậm chí người ta đã kiện cáo chiếm đoạt hết tài sản của tôi và còn ngăn cản anh chị em gia đình không được bán thuốc Bảo Long nữa kia.
- Người ấy ở đâu?
- Ở ngay Hà Nội thôi. Nhưng anh thấy đấy, Thủ đô của chúng ta có hàng trăm cửa hàng đang bán thuốc của Bảo Long. Một vài cá nhân ngăn cản sao nổi sự tín nhiệm của công chúng.
Thấy tôi tò mò muốn tìm hiểu về kẻ xấu bụng đó, Nguyễn Hữu Khai đành phải nói thật:
Đó là một câu chuyện dài, đầy cay đắng giữa tôi với một người đàn bà lớn hơn 2 tuổi nguyên là học trò của tôi. Dạo ấy do phải lao tâm, lao lực nhiều, sức khỏe tôi bị suy sụp nghiêm trọng. Tôi bị lao phổi rất nặng, tưởng khó qua khỏi. Thuốc của mình chữa cho thiên hạ thì thật hay nhưng nhiều khi không chữa nổi cho mình. Chính trong lúc suy sụp đó chị ta đã chăm sóc tôi rất tận tình. Vào một đêm mưa lạnh chị ta nằm ngoài hiên canh cửa cho tôi ngủ, sáng ra chị ta hớn hở kể cho tôi nghe một giấc mơ giống như tôi vừa mơ trong đêm, rằng có một vị tiên đã nói: “Hãy lấy đất trên cây cho chồng của con uống sẽ khỏi bệnh” nói đoạn chị ta e thẹn hai má đỏ bừng. Tôi cũng hơi ngượng nhưng rất lạ là trong mơ tôi cũng thấy một bà cụ bảo rằng: “Con còn nặng nợ với đời lắm, chưa chết được đâu. Hãy lấy đất trên cây mà uống”. Bây giờ kể lại coi như chuyện hoang đường, nhưng lúc đó, tôi chỉ bận tâm về bệnh của mình nên cố luận ra “đất ở trên cây nào thì chữa được bệnh phổi?”. Cuối cùng thì chị ta đã về quê ở Bến Tre và phát hiện đất ở trên cây chính là tổ mối làm trên ngọn dừa. Sắc lên, cái tổ mối ấy sặc mùi thuốc bắc và tôi đã khỏi bệnh. Có thể ba chữ “chồng của con” là chị ta bịa đặt, nhưng chuyện cái tổ mối chữa khỏi bệnh của tôi là có thật. Cảm tạ tấm lòng của chị ta, chúng tôi đã ăn ở với nhau và có với nhau một đứa con... Tôi những tưởng chị ta thật lòng thương tôi nên tôi đã truyền nghề rất tận tâm. Sau này, tôi đã dồn hết công sức, tiền của để đầu tư mở chi nhánh ở Hà Nội với mong muốn sản xuất thuốc Bảo Long ngay tại Hà Nội và Hà Tây để đỡ tốn chi phí vận chuyển... Công ty giao cho chị ta quản lý chi nhánh. Nhưng người đàn bà ấy vì ghen tuông và tham lam đã tự tách ra khỏi Bảo Long làm chúng tôi suýt sạt nghiệp. Nguyễn Hữu Khai dừng lại thở dài:
- Rồi sau này chị ta còn gây ra nhiều rắc rối cho tôi...
Con đường về Mỹ Đức chạy dọc theo dòng sông Đáy đầy thơ mộng, nhưng có lẽ là con đường bị bỏ quên lâu nhất ở Hà Tây. Mặt đường như bị băm lên, xe rung bần bật. Anh Nguyễn Vĩnh Hảo, trưởng chi nhánh Bảo Long tại Hà Nội nói với tôi:
- Cậu Khai là người nặng tình nặng nghĩa với quê hương lắm, lúc nào cũng mơ ước mở mang đường xá, xóa đói giảm nghèo cho quê nhà. Năm 1995 Công ty Bảo Long đã gây dựng chi nhánh Hà Tây và đã ký hợp đồng với xã Hồng Sơn đầu tư xây dựng khu vực rừng núi Thung Cống thành nơi trồng và chế biến dược liệu trong 3 năm với tổng số tiền khoảng 25 tỷ đồng. Mỗi năm Công ty Bảo Long trả cho xã 188 chỉ vàng, tương đương 100 triệu thời điểm đó. Chi nhánh đã tuyển hơn hai trăm xã viên vào làm việc ổn định, đã bỏ ra hơn một tỷ đồng xây dựng cơ sở vật chất và đã gieo trồng dược liệu. Theo đề án này thì với 200 héc-ta đất, số dược liệu không chỉ đủ dùng cho Bảo Long mà còn có khả năng xuất khẩu và mở dịch vụ thắng cảnh, du lịch với sự đầu tư của Bảo Long và cả Công ty nước ngoài.
Qua tìm hiểu, tôi biết hầu hết nhân dân xã Hồng Sơn đều tỏ ra phấn khởi không chỉ vì có công ăn việc làm ổn định mà còn nhận ra tương lai tốt đẹp sẽ đến từ cơ sở sản xuất dược liệu. Nhưng do nội bộ lục đục và nhận thức thiển cận của ông Chủ tịch huyện, một số phần tử quá khích đã hành hung công nhân viên Bảo Long và ngang nhiên đập phá. Báo Công an nhân dân và nhiều tờ báo khác đã có hàng loạt bài lên án sự kiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng này. Dù những tên phá hoại có bị xử lý thế nào thì tiền bạc của Bảo Long bỏ ra cũng không thể lấy lại được. Nhưng nỗi đau lớn nhất của Lương y Nguyễn Hữu Khai là lòng tốt của mình, tình cảm của mình một lần nữa lại bị từ chối. Tôi bỗng nhớ đến nhiều chuyện đau lòng từ những làng quê nghèo đói của chúng ta chỉ vì một chút hiềm khích, một thói ích kỷ, thiển cận mà đã kéo chậm tiến trình phát triển của cả cộng đồng và làm mất đi tấm lòng của những người con xa quê muốn góp công góp sức cho quê nhà đành phải ngậm ngùi bất lực. Nhưng với Nguyễn Hữu Khai anh không thể “dứt tình” với quê được. Anh đã cho xây lại chùa làng, rước tượng Phật từ Sài Gòn về tặng. Rồi chính anh, mỗi lần về quê lại đem theo vài chục học sinh không thi đỗ đại học, đưa vào Công ty dạy nghề, tạo công việc và cho theo học các lớp tại chức. Tôi đã gặp các vị chức sắc ở Mỹ Đức, ở Hà Đông. Họ đều lấy làm tiếc vì vụ việc đã xảy ra giữa Bảo Long và một số người ở xã Hồng Sơn và đều có ý mong Bảo Long làm lại thủ tục. Tôi hỏi Nguyễn Hữu Khai. Anh trầm ngâm hồi lâu:
- Tôi cũng muốn thử một lần nữa lắm! Nhưng đồng tiền của Công ty Bảo Long có phải “tiền chùa đâu?”. Làm đến bao giờ mới bù lại được những thất thoát không thể giải trình trong hạch toán?
- Nguyễn Hữu Khai dẫn tôi đến thăm họ hàng và bạn bè của anh. Ai cũng muốn gửi thêm con cháu vào Bảo Long và thế là hôm sau anh lếch thếch ra ga Hàng Cỏ cùng một đội quân choai choai. Anh nhường chiếc ôtô Camry đời mới cho chúng tôi đi vào Sài Gòn. Tính anh vẫn cẩn thận chu đáo thế. “Người ta tin mình, gửi con cháu cho mình thì mình phải trông nom chúng chứ thời buổi này để các cháu tự đi không yên tâm”.
Tôi đã tiếp xúc với nhiều vị tổng giám đốc, giám đốc các doanh nghiệp lớn nhưng chưa bao giờ tôi gặp một tổng giám đốc bình dị, chu đáo và sống tình nghĩa với học trò, với công nhân viên như Nguyễn Hữu Khai. Anh căn cơ từng xu, nhưng sẵn sàng bỏ của riêng mình hàng chục triệu giúp cho những gia đình công nhân khó khăn. Anh luôn luôn lắng nghe và chịu khó học hỏi. Vừa đi Pháp về anh đã lại đi Đài Loan và chuẩn bị cho một cuộc khảo sát thị trường châu Phi. Ấy vậy mà anh vẫn có bài đăng báo đều đều trên tờ Sức khỏe và Đời sống, tờ Thể thao và Tạp chí Võ thuật Việt Nam... Đã bắt đầu nổi tiếng môn phái “Bảo Long y võ” do anh làm Chưởng môn và Nguyễn Hữu Khai đã được bầu vào Ban chấp hành hội Võ thuật Việt Nam...
Tổng biên tập Lê Thấu đột ngột xuất hiện:
- Vui duyên mới không quên nhiệm vụ!
Tôi ngớ ra, nhìn Khai:
- Anh lại cưới vợ thật đó à?
- Vâng... Cuối cùng thì cũng phải “đi bước nữa" thôi!
Nguyễn Hữu Khai nhấp nhỉnh cười rồi thành thực tiếp:
- Lại cũng gian truân lắm! Nào là gia đình họ hàng của “cô ấy”chưa thông cảm. Nào là người đàn bà kia lại rấp tâm phá hoại ....vân vân và vân vân...
“Cô ấy” là Lê Thúy Hằng một sinh viên kinh tế xinh đẹp, trẻ trung của Bảo Long đang theo học năm cuối khoa quản trị kinh doanh. Thúy Hằng là một trong những hoa khôi của đất Ba Vì được tuyển vào Bảo Long từ buổi đầu ở Hà Tây. Cô đã thật lòng thương yêu chàng Lương y Giám đốc luôn vất vả vì sự tồn tại và phát triển của Bảo Long, luôn nặng tình nặng nghĩa với quê hương Hà Tây. Tình yêu và ý chí của cô đã chinh phục con người sống rất nguyên tắc và mải mê công việc đến khô khan. Nguyễn Hữu Khai hình như thay đổi hẳn cả tính nết, trẻ lại, sôi nổi và đằm thắm! Hằng đã vượt qua mọi ngăn cản kể cả sự kiện tụng của người đàn bà đã từng chung sống với Nguyễn Hữu Khai không hôn thú một thời.
Vào đúng ngày đám cưới, ông Giám đốc Bảo Long phải ra Ủy ban nhân dân xã Xuân Thới Thượng giải trình mối quan hệ cũ của mình. Người đàn bà kia cuối cùng cũng tỏ ra biết điều, đã lại trở về Bảo Long nhờ giúp đỡ. Dẫu vậy, đội bảo vệ vẫn được tăng cường kết hợp cùng đội dân phòng điạ phương để hôn lễ của Khai – Hằng trở thành một ngày hội của công nhân cán bộ Công ty Đông Nam dược Bảo Long tổ chức tại khuôn viên Công ty ở Hóc Môn. Ông Lê Thấu cười bảo tôi: “Chuyện tình của tay này thế mà có hậu!”. Tôi chú ý quan sát gương mặt cô dâu với cặp mắt huyền trong sáng và làn môi tươi tắn. Nàng rạng rỡ cười thỏa mãn trước hai họ. Đó là một phụ nữ thông minh rất tự tin, luôn kiêu hãnh về người chồng tài hoa của mình.
6 -1998
V.K.N
MỤC LỤC
Lời nói đầu......................................................................
Tình quê...........................................................................
Tình quê trong lòng bạn đọc
Người hiếm hoi sáng tác thể truyện thơ...........................
Trong sáng một “Tình quê” – tình người...........................
Đọc “Tình quê” nghỉ về một thể loại truyện thơ................
Thế võ và thuật y trong một truyện thơ hiện đại.............. .
Tình người qua một truyện thơ........................................
Lời cảm nhận về truyện thơ “Tình quê”..........................
Trân trọng và đồng cảm với lời nói đầu ..........................
của truyện thơ “Tình quê”
“Tình quê” một truyện thơ đặc sắc..................................
Cảm nhận “Tình quê”.....................................................
Thơ anh nặng một chữ tình.............................................
Cảm xúc về “Tình quê”..................................................
Giới thiệu tác giả qua một chuyện ký
Chuyện một Lương y......................................................